Cổng thông tin điện tử Ban Dân Tộc

Cộng đồng

Xem với cỡ chữAA

Vấn đề quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước (kỳ 1)

(14:32 | 16/04/2025)

Quá trình lãnh đạo Cách mạng và Nhân dân qua các thời kỳ, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đổi mới và hội nhập, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất quan tâm đối với vấn đề tôn giáo, và đã có những quan điểm, chính sách đúng đắn, phù hợp, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động, sinh hoạt đúng truyền thống, phát huy tinh thần đoàn kết, yêu nước, tạo ra các nguồn lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước và các địa phương. Để giúp bạn đọc tham khảo, với tư cách là người đang công tác trong lĩnh vực công tác dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo, tôi xin trao đổi 03 nội dung liên quan đến quan điểm, chính sách tôn giáo: kỳ 1, khái quát một số nội dung quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước trước Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; kỳ 2, trình bày quan điểm, chủ trương, chính sách tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; kỳ 3, Những đóng góp quan trọng của các tôn giáo, trường hợp tỉnh Kiên Giang.

Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI năm 1986, với chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó có lĩnh công tác tôn giáo. Và qua các kỳ Đại hội của Đảng từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, Đảng ta đều nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các quan điểm, chính sách phù hợp với điều kiện từng giai đoạn lịch sử của đất nước, đặc biệt là Đảng ta đã ban hành 02 văn bản Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo. Thứ nhất, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16 tháng 10 năm 1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; thứ hai, sau 13 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới của đất nước, tại Hội nghị Trung ương lần thứ Bảy (Khóa IX), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 về công tác tôn giáo.

Sau 15 năm quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10 tháng 01 năm  2018 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trun ương Đảng (Khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Theo đó, Bộ Chính trị đã đánh giá cao thành tựu đạt được từ việc tổ chức triển khai, thực hiện và chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW. Cho thấy quan điểm, chính sách được nêu trong Nghị quyết số 25-NQ/TW vẫn còn phù hợp với điều kiện của đất nước và tình hình thực tế tôn giáo ở nước ta và đã chỉ đạo tiếp tục triển thực hiện trong giai đoạn hiện nay.

Tôi xin điểm qua những nội dung quan điểm, chính sách như sau:

          “1- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

          Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình đẳng đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

          2- Đảng, Nhà nước thực hiện chính sách nhất quán đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

          3- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào có đạo.

          4- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

          Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.

          5- Vấn đề theo đạo và truyền đạo.

          Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.

          Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự của mình theo đúng quy định của pháp luật.

          Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái pháp, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.” (1).

          Để triển khai, tổ chức thực hiện tốt quan điểm, chính sách về tôn giáo, tại Nghị quyết số 25-NQ/TW cũng đã nêu Sáu nhiệm vụ công tác tôn giáo, cụ thể như sau:

          “(1) Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo; (2) Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước; (3) Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước; (4) Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ. (5) Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. (6) Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo”.

          Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ hợp thứ 6 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Hiến pháp mới - văn bản pháp luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có hiệu lực pháp lý cao nhất. Theo đó, vấn đề tôn giáo được Hiến pháp quy định rõ tại Điều 24:

          “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

          2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

          3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.”.

          Quốc hội Khóa XIV, tại kỳ họp thứ 2, ngày 18 tháng 11 năm 2016 đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo gồm 9 chương, 68 điều. Tại Chương II quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người (Điều 6); Quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 7); Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài đang cư trú hợp pháp tại Việt Nam (Điều 8). Qua đó cho thấy, Nhà nước rất quan tâm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với những chính sách rất đúng đắn, nhất là tại Điều 6 quy định:

          “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

          2. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.

          3. Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ, hoặc người giám hộ đồng ý.

          4. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.

          5. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo;

          …..”.

          Những quan điểm, chính sách của Đảng ta, quy định của Hiến pháp và pháp luật như đã nêu ở trên, cho thấy sự phát triển trong tư duy, nhận thức về vấn đề tôn giáo. Năm 2003, Đảng ta khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tin thần của một bộ phận nhân dân” (Nghị quyết số 25-NQ/TW); đến năm 2013, Nhà nước ta xác định “mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (Hiến pháp), qua đó Quốc hội đã cụ thể hóa, ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định nhiều chính sách đúng đắn, phù hợp với tất cả các tôn giáo đang hoạt động ở nước ta./.

Tài liệu tham khảo:

  1. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16 tháng 10 năm 1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới;
  2. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) về công tác tôn giáo;
  3. Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10 tháng 01 năm  2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới;
  4. Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
  5. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016;
  6. Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo;
  7. Nghị định số 95/2023/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

Danh Lắm (Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kiên Giang)